Chuyển phôi trữ là gì? Các công bố khoa học về Chuyển phôi trữ

Chuyển phôi trữ là một phương pháp quan trọng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, đặc biệt trong IVF. Quy trình này bao gồm đông lạnh phôi bằng vitrification, bảo quản ở -196°C, sau đó rã đông và chuyển phôi vào tử cung khi điều kiện thích hợp. Lợi ích của phương pháp là cơ hội mang thai cao hơn và lên kế hoạch gia đình linh hoạt. Tuy nhiên, thách thức gồm khả năng sống sót của phôi sau rã đông và yêu cầu y tế khắt khe. Nó đem lại hy vọng nhưng cần cân nhắc dựa trên tình trạng sức khỏe cá nhân.

Giới thiệu về Chuyển Phôi Trữ

Chuyển phôi trữ là một quy trình quan trọng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, đặc biệt trong các phương pháp như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Quy trình này liên quan đến việc lấy phôi đã được thụ tinh và đông lạnh từ trước đó để cấy vào tử cung của người mẹ, giúp tăng cơ hội mang thai.

Quy Trình Chuyển Phôi Trữ

1. Đông Lạnh và Bảo Quản Phôi

Phôi được đông lạnh bằng kỹ thuật đông đặc (vitrification), giúp ngăn ngừa sự hình thành các tinh thể băng có thể làm hỏng cấu trúc tế bào. Sau khi đông lạnh, phôi được bảo quản trong các thùng chứa nitơ lỏng ở nhiệt độ -196°C, đảm bảo tính ổn định và an toàn cho việc lưu trữ dài hạn.

2. Rã Đông và Chuẩn Bị Phôi

Khi người mẹ sẵn sàng cho việc chuyển phôi, phôi sẽ được rã đông cẩn thận. Quá trình này yêu cầu sự giám sát chặt chẽ để đảm bảo phôi không bị tổn thương. Sau khi rã đông, các chuyên gia sẽ kiểm tra chất lượng phôi để xác định khả năng sống sót và phát triển của chúng.

3. Chuẩn Bị Tử Cung

Trước khi phôi được chuyển, tử cung của người mẹ cần phải được chuẩn bị kỹ lưỡng. Điều này thường bao gồm việc điều chỉnh nội tiết tố để tạo ra một môi trường lý tưởng cho phôi làm tổ và phát triển. Bác sĩ có thể sử dụng hormone như estrogen và progesterone để chuẩn bị niêm mạc tử cung.

4. Tiến Hành Chuyển Phôi

Quá trình chuyển phôi thường diễn ra tại phòng khám, không cần gây mê và mất ít thời gian. Bác sĩ sẽ sử dụng một ống thông mỏng để đưa phôi qua cổ tử cung vào trong tử cung. Sau khi thực hiện, người mẹ sẽ được khuyến nghị nghỉ ngơi và theo dõi sức khỏe một cách cẩn thận.

Lợi Ích và Thách Thức của Chuyển Phôi Trữ

Lợi Ích

  • Tối ưu hóa cơ hội mang thai: Đối với các cặp vợ chồng không thể thụ thai tự nhiên, chuyển phôi trữ mang lại thêm cơ hội để có con.
  • Tính linh hoạt: Việc đông lạnh phôi cho phép các cặp đôi lên kế hoạch gia đình một cách linh hoạt hơn, lựa chọn thời điểm thích hợp để mang thai.

Thách Thức

  • Khả năng sống sót của phôi sau khi rã đông: Mặc dù kỹ thuật đông lạnh hiện đại đã cải thiện tỷ lệ sống sót, vẫn có khả năng phôi không sống sau khi rã đông.
  • Yêu cầu về điều kiện y tế: Quá trình này đòi hỏi sự theo dõi kỹ lưỡng và có thể không phù hợp với tất cả mọi người.

Kết Luận

Chuyển phôi trữ là một phương pháp hữu ích trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, mang lại hy vọng cho nhiều cặp vợ chồng mong muốn có con. Tuy nhiên, cũng như các phương pháp y tế khác, việc thực hiện cần được cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên tình trạng và yêu cầu sức khỏe cụ thể của từng cá nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chuyển phôi trữ":

Các osmolyte hữu cơ betaine và proline được vận chuyển bởi một hệ thống chung trong các phôi chuột giai đoạn trước cấy ghép Dịch bởi AI
Journal of Cellular Physiology - Tập 210 Số 1 - Trang 266-277 - 2007
Tóm tắt

Betaine và proline bảo vệ các phôi chuột tiền cấy ghép khỏi tình trạng tăng độ thẩm thấu và giảm thể tích tế bào, điều này ngụ ý rằng chúng có thể hoạt động như các osmolyte hữu cơ. Tuy nhiên, hệ thống vận chuyển trung gian cho sự tích tụ của chúng trong trứng đã thụ tinh và các phôi sớm vẫn chưa được biết đến, và các b transporter osmolite hữu cơ đã được xác định trước đó cũng không thể giải thích cho việc vận chuyển của chúng. Ở đây, chúng tôi báo cáo rằng có một thành phần vận chuyển riêng biệt có thể bão hòa được chia sẻ bởi betaine và proline trong các phôi chuột 1 tế bào. Một loạt các chất ức chế có tác động gần như giống hệt nhau lên sự vận chuyển của cả betaine và proline qua hệ thống này. Ngoài ra, các giá trị Ki cho sự ức chế đối kháng của việc vận chuyển betaine và proline khoảng 100–300 µM, tương tự như giá trị Km (khoảng 200–300 µM) cho sự vận chuyển của chúng, và cả hai có tốc độ vận chuyển tối đa (Vmax) tương tự. Các giá trị Ki cho sự ức chế việc vận chuyển betaine và proline bởi dimethylglycine cũng tương tự (khoảng 2 mM), càng củng cố thêm việc cả hai cơ chất được vận chuyển thông qua một hệ thống vận chuyển duy nhất. Cuối cùng, việc vận chuyển betaine và proline đều cần Na+ và Cl. Các dữ liệu này nhất quán với một hệ thống vận chuyển betaine/proline đơn lẻ, yêu cầu Na+ và Cl trong các phôi chuột 1 tế bào. Trong khi betaine chỉ được vận chuyển qua một hệ thống bão hòa duy nhất, chúng tôi tìm thấy một lộ trình vận chuyển proline bổ sung, ít dễ nhận ra hơn, không nhạy cảm với betaine, nhạy cảm với Na+, và bị ức chế bởi alanine, leucine, cysteine và methionine. Hơn nữa, chúng tôi đã chứng minh rằng betaine, giống như proline, có mặt trong vòi trứng chuột và do đó có thể hoạt động như một cơ chất sinh lý. Cuối cùng, sự tích tụ của cả betaine và proline gia tăng với tình trạng tăng độ thẩm thấu, nhất quán với vai trò khả năng của chúng như các osmolyte hữu cơ trong các phôi sớm. J. Cell. Physiol. 210: 266–277, 2007. © 2006 Wiley‐Liss, Inc.

BẤT THƯỜNG TRỞ VỀ TĨNH MẠCH PHỔI HOÀN TOÀN TRONG TIM THỂ TẮC NGHẼN: KẾT QUẢ TRUNG HẠN PHẪU THUẬT CHUYỂN CÁC TĨNH MẠCH PHỔI VỀ NHĨ TRÁI TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả trung hạn sau phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái đối với các bệnh nhân bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể trong tim có tắc nghẽn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu được tiến hành với các bệnh nhân được chẩn đoán xác định bất thường trở về các tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể trong tim có tắc nghẽn được phẫu thuật sửa chữa hai thất tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương trong thời gian từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 5 năm 2017. Kết quả: Có tổng số 17 bệnh nhân phù hợp với tiêu chuẩn được lựa chọn vào nghiên cứu. Tỷ lệ nam/nữ là 12/5. Tuổi trung bình khi phẫu thuật của các bệnh nhân là 97.7 ± 67.8 ngày, cân nặng trung bình của các bệnh nhân là 4.5 ± 0.9 kg, diện tích da cơ thể trung bình là 0.27 ± 0.1 m2. Có 2 bệnh nhân (11.8%) có tình trạng sốc tim khi nhập viện, 15 bệnh nhân (88.2%) có suy hô hấp trước khi tiến hành phẫu thuật, và 6 bệnh nhân (35.3%) cần thở máy trước phẫu thuật. Thủ thuật phá vách liên nhĩ trước phẫu thuật được tiến hành trên 4 trường hợp (23.5%) nhằm ổn định huyết động của bệnh nhân. Thời gian cặp động mạch chủ trung bình là 56.3 ± 32.2 phút, thời gian chạy máy tuần hoàn ngoài cơ thể trung bình là 84.7±38.9 phút. Có 2 bệnh nhân (11.8%) có tổn thương hẹp tại vị trí hợp lưu các tĩnh mạch phổi đổ vào xoang vành cần phải mở rộng lỗ đổ vào xoang vành và sử dụng kỹ thuật sutureless nhằm mở rộng miệng nối, 15 trường hợp (88.2%) còn lại được áp dụng kỹ thuật kinh điển cắt nóc xoang vành và vá lại lỗ thông liên nhĩ. Có 4 bệnh nhân (23.5%) có nhịp chậm xoang sau phẫu thuật cần tạo nhịp nhĩ tạm thời, và 1 bệnh nhân có tình trạng cung lượng tim thấp sau phẫu thuật. Thời gian thở máy trung bình sau phẫu thuật là 18.1 ± 27.7 giờ, có 1 bệnh nhân (5.9%) tử vong sau phẫu thuật và cũng là bệnh nhân cần mổ lại sớm do hẹp miệng nối tĩnh mạch phổi sau phẫu thuật. Kết quả khám lại ở các bệnh nhân sống sót sau phẫu thuật cho thấy các bệnh nhân đều ổn định và 1 bệnh nhân có hẹp nhẹ các tĩnh mạch phổi chưa cần phải mổ lại. Kết luận: Kết quả trung hạn phẫu thuật điều trị bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể trong tim có tắc nghẽn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương là khả quan. Cần có nghiên cứu với thời gian theo dõi dài hơn và số lượng bệnh nhân nhiều hơn để đánh giá chính xác hơn nữa về bệnh lý tim bẩm sinh hiếm gặp này.
#bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn có tắc nghẽn #thể trong tim #kết quả phẫu thuật trung hạn
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ CHUYỂN PHÔI NANG TRỮ ĐÔNG VÀ SỐ MỘT YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN HỖ TRỢ SINH SẢN VÀ NAM HỌC ĐỨC PHÚC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Xác định được tỷ lệ sống sau rã đông của phôi nang và xác định tỷ lệ có thai của chuyển phôi nang trữ đông. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, đánh giá tỷ lệ sống của phôi nang sau rã đông và tỷ lệ  có thai của 365 trường hợp chuyển phôi nang tại Bệnh viện Hỗ trợ sinh sản (HTSS) và Nam học Đức Phúc, trong thời gian từ tháng 1 đến hết tháng 8 năm 2021. Kết quả: Từ tháng 1/2021 đến tháng 8/2021 có 365 trường hợp phù hợp tiêu chuẩn nghiên cứu. Tỷ lệ sống sau rã đông 99,85%. Tỷ lệ β-hCG dương tính và tỷ lệ mang thai lâm sàng của nhóm này lần lượt là 74,79% và 67,12%. Tỷ lệ làm tổ của phôi là 40,35 %. Kết luận: Kết quả có thai là khá cao khi chuyển phôi nang trữ đông và trường hợp tiên lượng tốt chỉ nên chuyển 1 phôi có chất lượng tốt hoặc phôi trung bình nên chuyển kèm thêm 1 phôi tốt, khá, trung bình.
KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ PROGESTERONE HUYẾT THANH TRƯỚC CHUYỂN PHÔI VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG Ở CHU KỲ CHUYỂN PHÔI ĐÔNG LẠNH
Mục tiêu: Khảo sát nồng độ progesterone huyết thanh trước chuyển phôi và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng ở chu kỳ chuyển phôi đông lạnh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu quan sát mô tả, tiến cứu trên 126 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh giai đoạn phôi nang tại Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội, Học viện Quân y, sử dụng liệu pháp thay thế hormone để chuẩn bị nội mạc tử cung và hỗ trợ hoàng thể bằng 800 mg progesterone vi hạt âm đạo/ngày phối hợp 20 mg dydrogesterone đường uống. Định lượng progesterone huyết thanh một ngày trước ngày chuyển phôi. Đánh giá nồng độ progesterone huyết thanh (ng/mL), tuổi, cân nặng, chỉ số khối cơ thể trung bình (BMI) và độ dày niêm mạc tử cung ngày mở cửa sổ làm tổ. Kết quả: Nồng độ progesterone huyết thanh trung bình trước ngày chuyển phôi là 14,25 ± 6,76 ng/mL. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự tương quan giữa các yếu tố tuổi (r: 0,1189, p = 0,185), cân nặng (r: -0,0208, p = 0,817), BMI (r: -0,0417, p = 0,643) và niêm mạc tử cung (r: -0,0527, p = 0,558) với nồng độ progesterone huyết thanh. Kết luận: Nồng độ progesterone huyết thanh trung bình trước ngày chuyển phôi của các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh là 14,25 ± 6,76 ng/mL. Sự ảnh hưởng của các yếu tố tuổi, cân nặng, BMI và niêm mạc tử cung lên nồng độ progesterone không có ý nghĩa thống kê.
#Progesterone #Chuyển phôi đông lạnh #x
BẤT THƯỜNG TRỞ VỀ TĨNH MẠCH PHỔI HOÀN TOÀN THỂ TRÊN TIM CÓ TẮC NGHẼN: KẾT QUẢ TRUNG HẠN PHẪU THUẬT CHUYỂN CÁC TĨNH MẠCH PHỔI VỀ NHĨ TRÁI TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả trung hạn phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái trong điều trị bệnh tim bẩm sinh bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể trên tim có tắc nghẽn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân được chẩn đoán và bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn trên tim có tắc nghẽn và được phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về tim trái trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2017 được tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: 49 bệnh nhân được thu thập nghiên cứu hồi cứu. Tỷ lệ nam/nữ là 29/20 bệnh nhân. Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là 72.1 ± 89.3 ngày (1-540 ngày), cân nặng trung bình của các bệnh nhân là 4 ± 1.2 kg (1.7-8 kg). 12 bệnh nhân (24.5%) nhập viện trong tình trạng sốc tim cần phẫu thuật cấp cứu, và 37 bệnh nhân (75.5%) có suy hô hấp trong đó 28 bệnh nhân (57.1%) cần hỗ trợ thở máy trước phẫu thuật, và 35 bệnh nhân (71.4%) có tình trạng huyết động không ổn định cần hỗ trợ vận mạch trước mổ. Thời gian chạy máy trung bình và thời gian cặp động mạch chủ trung bình trong nhóm nghiên cứu lần lượt là 112.2 ± 39.9 phút (72-270 phút) và 50 ± 63.1 phút (32-127 phút). Có 26 bệnh nhân (53.1%) được thực hiện kỹ thuật sutureless nhằm chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái. Có 1 bệnh nhân  cần hỗ trợ ECMO và 4 bệnh nhân cần để hở xương ức sau phẫu thuật. Có 6 bệnh nhân (12%) tử vong sau phẫu thuật, có 1 bệnh nhân nào cần mổ lại do hẹp miệng nối tĩnh mạch phổi nhĩ trái trong thời gian theo dõi, và 2 bệnh nhân (4.1%) tử vong muộn trong thời gian theo dõi. Kết luận: Kết quả trung hạn phẫu thuật điều trị bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể trên tim có tắc nghẽn tại Bệnh viện Nhi Trung ương là khả quan. Cần một nghiên cứu có số lượng bệnh nhân lớn hơn và theo dõi dài hơn nhằm đánh giá chính xác kết quả điều trị bệnh tim bẩm sinh phức tạp này.
#bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể trên tim #tắc nghẽn trở về tĩnh mạch phổi #phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái sutureless thì đầu.
BẤT THƯỜNG XUẤT PHÁT ĐỘNG MẠCH VÀNH TRÁI TỪ ĐỘNG MẠCH PHỔI: KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT 60 TRƯỜNG HỢP TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả trung hạn phẫu thuật điều trị bệnh tim bẩm sinh bất thường xuất phát động mạch vành trái từ động mạch phổi tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng-phương pháp: Từ tháng 6 năm 2011 đến tháng 1 năm 2021, tổng số 60 bệnh nhân được chẩn đoán bất thường xuất phát động mạch vành trái từ động mạch phổi được phẫu thuật chuyển động mạch vành trái trực tiếp về động mạch chủ tại Bệnh viện Nhi Trung ương được tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: Cân nặng trung bình và tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu lần lượt là 5.8 ± 2.1 kg và 6.8 ± 12.4 tháng. Tỷ lệ nam/nữ là 25/35. Có 4 bệnh nhân (6.7%) có bất thường trong tim phối hợp bao gồm 2 bệnh nhân tứ chứng Fallot, 1 bệnh nhân thông liên thất và 1 bệnh nhân màng ngăn nhĩ trái-hẹp eo động mạch chủ. Kết quả siêu âm trước phẫu thuật cho thấy có 21 bệnh nhân hở van hai lá mức độ từ trung bình-nặng đến rất nặng, chức năng tâm thất trái trước mổ trung bình là 39.5 ± 15.7% (14%-76%). Có 48 trường hợp (80%) động mạch vành trái xuất phát từ xoang Valsalva đối diện, 7 trường hợp (11.7%) động mạch vành trái xuất phát từ xoang không vành của động mạch phổi, và 5 trường hợp (8.3%) động mạch vành trái xuất phát từ thân động mạch hoặc gốc động mạch phổi. Thời gian chạy máy trung bình, thời gian cặp động mạch chủ trung bình của nghiên cứu lần lượt là 112.6 ± 38.3 phút và 65.5 ± 26.2 phút. Có 51 bệnh nhân (85%) được trồng trực tiếp động mạch vành trái vào động mạch chủ, và 9 bệnh nhân (15%) cần tạo đường hầm ngoài động mạch phổi. Có 3 bệnh nhân (5%) tử vong sớm tại bệnh viện. Có 4 bệnh nhân cần mổ lại trong thời gian theo dõi sau phẫu thuật (7%). Khám lại tại thời điểm cuối cùng cho thấy các bệnh nhân đều ổn định, có 3 bệnh nhân có NYHA 2, và 54 bệnh nhân còn lại đều không có triệu chứng của suy tim sau mổ. Kết luận: Kết quả trung hạn phẫu thuật điều trị bệnh bất thường xuất phát động mạch vành trái từ động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương là rất tốt. Cần tiếp tục theo dõi dài hạn và đánh giá sâu hơn nữa về tiến triển của chức năng tim và tình trạng hở van hai lá sau phẫu thuật.
#Động mạch vành trái xuất phát từ động mạch phổi #phẫu thuật chuyển động mạch vành về động mạch chủ #bệnh tim bẩm sinh
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ BỆNH BẤT THƯỜNG TRỞ VỀ TĨNH MẠCH PHỔI HOÀN TOÀN THỂ DƯỚI TIM CÓ TẮC NGHẼN TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái điều trị bệnh bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể dưới tim có tắc nghẽn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2017, các bệnh nhân được phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về tim trái trong bệnh bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể dưới tim có tắc nghẽn được tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: Có tổng số 20 bệnh nhân được thu thập vào nghiên cứu. Tỷ lệ nam/nữ là 13/7 bệnh nhân. Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là 16.25 ± 20.14 ngày (1-80 ngày), cân nặng trung bình của các bệnh nhân là 3.2 ± 0.87 kg (1.9-5.7 kg). Có 6 bệnh nhân (30%) nhập viện trong tình trạng sốc tim cần phẫu thuật cấp cứu, và 11 bệnh nhân (55%) cần hỗ trợ máy thở trước phẫu thuật. Thời gian cặp động mạch chủ trung bình trong nhóm nghiên cứu là 67.9  ± 24.7 phút (41-154 phút), thời gian chạy máy trung bình là 132.8 ± 41.5 phút (82-247 phút). Có 3 bệnh nhân (15%) cần để hở xương ức sau phẫu thuật. Có 1 bệnh nhân (5%) tử vong sau phẫu thuật, không có bệnh nhân nào cần mổ lại do hẹp miệng nối tĩnh mạch phổi nhĩ trái trong thời gian theo dõi. Kết luận: Kết quả sớm sau phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái điều trị bệnh bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể dưới tim có tắc nghẽn tại Bệnh viện Nhi Trung ương là khả quan. Cần một nghiên cứu có số lượng bệnh nhân lớn hơn và theo dõi dài hơn nhằm đánh giá chính xác kết quả điều trị bệnh tim bẩm sinh phức tạp này.
#bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể dưới tim #tắc nghẽn trở về tĩnh mạch phổi #toàn thể dưới tim #tắc nghẽn trở về tĩnh mạch phổi #phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái sutureless
15. Kết quả lâm sàng phác đồ chuẩn bị niêm mạc bằng chu kỳ tự nhiên cải tiến và chu kỳ nhân tạo trên bệnh nhân chuyển phôi trữ
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 168 Số 7 - Trang 134-142 - 2023
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 167 bệnh nhân chuyển phôi trữ từ 8/2022 - 3/2023 tại Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội. Kết quả cho thấy tuổi trung bình ở 2 nhóm lần lượt là 31 ± 5 phác đồ tự nhiên, 30 ± 5 phác đồ nhân tạo. Độ dày niêm mạc tử cung ngày khởi động progesterone ở nhóm chu kì tự nhiên, nhóm nhân tạo lần lượt là 10,99 ± 1,46 và 10,70 ± 1,06mm. Chưa thấy có sự khác biệt về tỷ lệ thai lâm sàng, làm tổ, thai diễn tiến giữa 2 nhóm; p > 0,05. Phân tích các mô hình có hiệu chỉnh tuổi, chỉ số khối cơ thể, thời gian vô sinh, loại vô sinh, tiền sử lưu sảy thai, số lần chuyển phôi thất bại, niêm mạc tử cung ngày khởi động progesterone, tổng số phôi chuyển, tổng số phôi tốt cho thấy tỷ lệ có thai lâm sàng ở nhóm chu kì nhân tạo có xu hướng cao hơn so với nhóm chu kì tự nhiên, tuy nhiên mối liên quan chưa có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Việc lựa chọn phác đồ chuẩn bị niêm mạc tử cung để chuyển phôi trữ tùy thuộc vào việc cá thể hóa cho bệnh nhân và từng trung tâm.
#Chu kì tự nhiên #chu kì nhân tạo #chuẩn bị niêm mạc tử cung #chuyển phôi trữ
ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU KẾT QUẢ NUÔI CẤY PHÔI BẰNG MÔI TRƯỜNG ĐƠN BƯỚC CSC TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá bước đầu kết quả nuôi cấy phôi bằng môi trường đơn bước CSC và xác định một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát, mô tả theo dõi dọc trên 66 phụ nữ làm thụ tinh trong ống nghiệm với 806 noãn MII được ICSI tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, từ tháng 1/2021 đến tháng 8/2021. Trong đó có 479 noãn sau ICSI được theo dõi nuôi cấy liên tục đến ngày 5 bằng môi trường đơn bước CSC có thay mới môi trường vào ngày 3. Các biến nghiên cứu chính là tỷ lệ thụ tinh, chất lượng phôi giai đoạn phân cắt (ngày 2), chất lượng phôi nang và một số yếu tố liên quan. Kết quả: Tỷ lệ thụ tinh đạt 91,66 ± 12,92%, tỷ lệ tạo phôi ngày 2 là 98,34 ± 5,40%, tỷ lệ tạo phôi nang là 73,07 ± 13,06%%, tỷ lệ phôi nang hữu dụng đạt 69,81 ± 12,96%. Chất lượng noãn và tinh trùng tại thời điểm ICSI ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi nang hữu dụng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
#Phôi giai đoạn phân cắt #phôi nang hữu dụng #nuôi cấy phôi #môi trường đơn bước #môi trường chuyển tiếp
So sánh hiệu quả của Estradiol thoa da với Estradiol uống trong chuẩn bị nội mạc tử cung ở bệnh nhân chuyển phôi trữ: Thử nghiệm lâm sàng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 3 - Trang 92-97 - 2019
Mục tiêu: So sánh tác dụng của estrogen thoa da và estrogen đường uổng lên nội mạc tử cung (NMTC) trên bệnh nhân chuyển phôi trữ thông qua chất lượng NMTC và tỷ lệ có thai sau chuyển phôi. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp có đối chứng, bệnh nhân dưới 40 tuổi, chuyển phôi trữ lần đầu tiên và có ít nhất 1 phôi tốt trong lần chuyển phôi này được tuyển chọn vào nghiên cứu. Phân ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm chứng (n=71) được chuẩn bị NMTC bằng E2 đường uống liều khởi đầu là 6 mg estradiol valerate/ ngày. Nhóm can thiệp (n=51) được sử dụng E2 thoa da 3 mg 17/3-Estradiol/ ngày. Siêu âm đánh giá độ dày NMTC vào ngày 10 chu kỳ, duy trì liều thuốc ban đầu nếu độ dày NMTC là 8mm hoặc tăng liều 10 mg estradiol valerate/ngày hoặc 4,5 mg 17 fì-Estradiol/ ngày nếu độ dày không đạt. So sánh độ dày NMTC ngày 14 chu kỳ, nồng độ E2 huyết thanh và tỷ lệ có thai, tỷ lệ thai lâm sàng giữa hai nhóm. Kết quả: Không có sự khác biệt về độ dày NMTC ngày 14 chu kỳ (9,90±1,83mm so với 9,34±2,00mm; p=0,1), hình ảnh NMTC và tỷ lệ hủy chu kỳ do chất lượng NMTC (5,3% so với 5,6%; p=1) không đạt yêu cầu giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp. Nồng độ E2 huyết thanh (291,7±161,4pg/mlso với 218,0±161,4 pg/ml; p=0,049) và độ dày NMTC ngày 10 chu kỳ (8,86±2,06 mm so với 8,05±2,06 mm) ở nhóm chứng cao hơn rõ rệt so với nhóm can thiệp. Tỷ lệ số bệnh nhân cần tăng liều E2 (30,7% so với 56,6%, p=0,05) ở nhóm chứng thấp hơn rõ rệt so với nhóm can thiệp. Tỷ lệ có thai (53,3% so vôi 51,0%; p=0,07) và tỷ lệ thai lâm sàng (46,5% so với 43,1 %; p=0,71) giữa hai nhóm là tương đương. Kết luận: Không có sự khác biệt về chất lượng NMTC và tỷ lệ có thai giữa nhóm E2 đường uống và E2 thoa da. Gợi ý rằng E2 thoa da hàng ngày có thể thay thế E2 đường uống trong chuẩn bị NMTC cho chu kỳ chuyển phôi trữ. Xem xét với liều khởi đầu E2 thoa da cao hơn so với liều 3mg 17/3-Estradiol/ ngày.
#Chuyển phôi trữ; estradiol thoa da; nội mạc tử cung
Tổng số: 54   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6